Nhà khoa học thông minh nhất chúng ta từng biết đến: John von Neumann
Nhà khoa học thông minh nhất chúng ta từng biết đến: John von Neumann
Xem nhanh
Một tiểu thuyết gia đã biến nhà vật lý John von Neumann thành một nhà khoa học ác quỷ.
Nếu phát minh nguy hiểm nhất nổi lên từ Thế chiến II là bom nguyên tử thì máy tính giờ đây dường như chỉ đứng hạng thứ nhì, nhờ những phát triển gần đây về trí tuệ nhân tạo (AI). Cả quả bom lẫn chiếc máy tính đều không thể được ghi nhận công lao, hay bị đổ lỗi cho bất kỳ nhà khoa học nào. Nhưng nếu chúng ta theo dõi câu chuyện về hai phát minh này đủ xa trong quá khứ, thì chúng hóa ra lại giao nhau qua hình tượng của John von Neumann, một nhà bác học gốc Hungary đôi khi được mô tả là người thông minh nhất từng sống. Mặc dù ngày nay ông ít nổi tiếng hơn một số người cùng thời – Albert Einstein, J. Robert Oppenheimer, Richard Feynman – nhưng nhiều người trong số họ coi ông là người ấn tượng nhất. Hans Bethe, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1967, nhận xét: “Đôi khi tôi tự hỏi một bộ não như của von Neumann liệu có biểu hiện cho một loài vượt trội hơn loài người hay không.”
Sinh ra ở Budapest vào năm 1903, von Neumann đến Hoa Kỳ vào năm 1930, và vào năm 1933, ông gia nhập Viện Nghiên cứu Khoa học Cao cấp (Institute for Advanced Study) ở Princeton, New Jersey. Giống như nhiều nhà vật lý di cư, ông đã tư vấn cho Dự án Manhattan, giúp phát triển phương pháp kích nổ dùng để cho nổ những quả bom nguyên tử đầu tiên. Chỉ vài tuần trước vụ ném bom Hiroshima, ông cũng đã xuất bản một bài báo trình bày mô hình cho một máy tính kỹ thuật số có thể lập trình được. Khi Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos có chiếc máy tính đầu tiên vào năm 1952, nó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc thiết kế được gọi là “kiến trúc von Neumann”. Chiếc máy này được đặt một cái tên trêu đùa là MANIAC và có tên gọi đầy đủ theo sau, MANIAC được đặt ra để khớp với các chữ viết tắt của: Máy phân tích Toán học (Mathematical Analyzer), Máy tính tích phân bằng Phương pháp số (Numerical Integrator) và Máy tính Tự động (Automatic Computer).
Hai người vận hành đang ngồi trước máy tính MANIAC vào năm 1952. Chiếc móng ngựa trên cột bên phải được treo để cầu may. Ảnh: Wikipedia.
Và đó không phải là tất cả. Von Neumann còn thiết lập nên khung sườn toán học cho cơ học lượng tử, đã mô tả cơ chế của hiện tượng tự nhân bản di truyền trước cả việc khám phá ra DNA, và đã sáng lập lĩnh vực lý thuyết trò chơi, một lý thuyết đã trở thành trung tâm cho cả kinh tế học lẫn địa chiến lược của Chiến tranh Lạnh. Vào thời điểm ông qua đời vì ung thư xương, vào năm 1957, có thể là do phơi nhiễm phóng xạ tại Los Alamos, thì ông đã là một trong những nhà cố vấn được đánh giá cao nhất của chính phủ Hoa Kỳ về vũ khí và chiến lược hạt nhân. Chiếc giường bệnh của ông tại Trung tâm Y khoa Quân đội Walter Reed được bảo vệ cẩn mật bởi một phân đội an ninh, để đảm bảo ông không tiết lộ bất kỳ bí mật nào trong cơn mê sảng vì bệnh tật của mình.
Nếu phát minh nguy hiểm nhất nổi lên từ Thế chiến II là bom nguyên tử thì máy tính giờ đây dường như chỉ đứng hạng thứ nhì, nhờ những phát triển gần đây về trí tuệ nhân tạo (AI). Cả quả bom lẫn chiếc máy tính đều không thể được ghi nhận công lao, hay bị đổ lỗi cho bất kỳ nhà khoa học nào. Nhưng nếu chúng ta theo dõi câu chuyện về hai phát minh này đủ xa trong quá khứ, thì chúng hóa ra lại giao nhau qua hình tượng của John von Neumann, một nhà bác học gốc Hungary đôi khi được mô tả là người thông minh nhất từng sống. Mặc dù ngày nay ông ít nổi tiếng hơn một số người cùng thời – Albert Einstein, J. Robert Oppenheimer, Richard Feynman – nhưng nhiều người trong số họ coi ông là người ấn tượng nhất. Hans Bethe, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1967, nhận xét: “Đôi khi tôi tự hỏi một bộ não như của von Neumann liệu có biểu hiện cho một loài vượt trội hơn loài người hay không.”
Sinh ra ở Budapest vào năm 1903, von Neumann đến Hoa Kỳ vào năm 1930, và vào năm 1933, ông gia nhập Viện Nghiên cứu Khoa học Cao cấp (Institute for Advanced Study) ở Princeton, New Jersey. Giống như nhiều nhà vật lý di cư, ông đã tư vấn cho Dự án Manhattan, giúp phát triển phương pháp kích nổ dùng để cho nổ những quả bom nguyên tử đầu tiên. Chỉ vài tuần trước vụ ném bom Hiroshima, ông cũng đã xuất bản một bài báo trình bày mô hình cho một máy tính kỹ thuật số có thể lập trình được. Khi Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos có chiếc máy tính đầu tiên vào năm 1952, nó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc thiết kế được gọi là “kiến trúc von Neumann”. Chiếc máy này được đặt một cái tên trêu đùa là MANIAC và có tên gọi đầy đủ theo sau, MANIAC được đặt ra để khớp với các chữ viết tắt của: Máy phân tích Toán học (Mathematical Analyzer), Máy tính tích phân bằng Phương pháp số (Numerical Integrator) và Máy tính Tự động (Automatic Computer).
Hai người vận hành đang ngồi trước máy tính MANIAC vào năm 1952. Chiếc móng ngựa trên cột bên phải được treo để cầu may. Ảnh: Wikipedia.
Và đó không phải là tất cả. Von Neumann còn thiết lập nên khung sườn toán học cho cơ học lượng tử, đã mô tả cơ chế của hiện tượng tự nhân bản di truyền trước cả việc khám phá ra DNA, và đã sáng lập lĩnh vực lý thuyết trò chơi, một lý thuyết đã trở thành trung tâm cho cả kinh tế học lẫn địa chiến lược của Chiến tranh Lạnh. Vào thời điểm ông qua đời vì ung thư xương, vào năm 1957, có thể là do phơi nhiễm phóng xạ tại Los Alamos, thì ông đã là một trong những nhà cố vấn được đánh giá cao nhất của chính phủ Hoa Kỳ về vũ khí và chiến lược hạt nhân. Chiếc giường bệnh của ông tại Trung tâm Y khoa Quân đội Walter Reed được bảo vệ cẩn mật bởi một phân đội an ninh, để đảm bảo ông không tiết lộ bất kỳ bí mật nào trong cơn mê sảng vì bệnh tật của mình.
The MANIAC: Những bộ óc phát minh dường như không hoàn toàn tỉnh táo
Trong cuốn tiểu thuyết mới của mình, The MANIAC (tạm dịch: Người điên), nhà văn người Chi-lê Benjamín Labatut ngụ ý rằng tên gọi của chiếc máy tính mà von Neumann đã giúp phát minh ra thật quá phù hợp với con người của ông – một nhà vật lý. Nếu thế giới của chúng ta dường như thường khá điên loạn – nếu chúng ta không có khả năng phân biệt giữa điều thực với điều ảo, khao khát sở hữu được sức mạnh công nghệ mà chúng ta không thể sử dụng một cách khôn ngoan, luôn luôn nảy ra những cách mới để hủy hoại chính mình – thì có lẽ những bộ óc vĩ đại đã phát minh ra thế giới của chúng ta có thể đã không hoàn toàn tỉnh táo. Nhưng phải chăng người đàn ông đã góp phần tạo ra vũ khí nguyên tử và trí tuệ nhân tạo biết rằng mình đang đưa tương lai của nhân loại vào tình cảnh hiểm nguy? Hay là sự háo hức của lòng say mê khám phá khoa học mạnh mẽ tới nỗi mà ông không quan tâm tới chuyện đó?Tiểu thuyết The MANIAC bắt đầu đào sâu làm rõ điều bí hiểm này bằng những lời làm chứng tưởng tượng bởi những con người có thực – các anh chị em và thầy cô giáo cũ, các đồng nghiệp và người tình – những người biết rõ von Neumann ở từng giai đoạn khác nhau trong cuộc đời ông. Labatut trộn lẫn nhiều điều có thực trong tiểu sử của ông với những tình tiết và chi tiết hư cấu để đưa chúng ta đi qua từng giai đoạn, từ đứa trẻ thần đồng ở Budapest đến nhà khoa học đang hấp hối ở Washington, D.C., nổi cơn thịnh nộ trên giường bệnh khi tâm trí ông héo mòn dần. Đồng thời, nền tảng về khoa học và toán học trong công trình của von Neumann cũng được khắc họa cho dễ hiểu đối với độc giả thông thường.
Bìa cuốn sách The Maniac và tác giả trẻ Benjamín Labatut. Ảnh: Litstack.
Ngay từ khi bắt đầu, Labatut đã nói rõ rằng von Neumann không phải một con người bình thường. Người mẹ đã ghi chép nhiều chi tiết về quá trình lớn lên của Neumann, như trong quyển lưu bút thời thơ ấu có viết: “Không hề khóc sau cú vỗ mạnh của bác sĩ/Gây kinh ngạc/Trông giống một người trung tuổi hơn là trẻ sơ sinh.” Giáo sư toán của ông giảng cho cả lớp về một định lý “quá sức khó” đến nỗi không ai có thể chứng minh, chỉ để thấy cậu bé giơ tay, đi lên bảng và viết ra một bài chứng minh hoàn chỉnh: “Nhiều năm, toàn bộ những năm tháng sự nghiệp của tôi, đã trôi qua trong một giây… Sau việc đó, tôi cảm thấy sợ von Neumann.”
Tuy vậy, ngay cả khi cuốn tiểu thuyết gắng sức tập trung vào von Neumann, thì cấu trúc của nó vẫn giữ một khoảng cách với ông; Neumann không phải là một con người mà chúng ta cần biết nhiều đến mức như một vấn đề phải giải quyết, bởi tiểu sử chi tiết của ông luôn có sẵn để mọi người đọc. Vấn đề ở đây, mà tất cả những người kể lại đều đồng ý, là việc thiên tài của Neumann vừa gây phấn khích vừa đáng sợ ngang như nhau. “Điều mà cậu ta có thể làm. Nó thật hiếm có và đẹp đẽ đến mức hễ xem cậu làm là khắc rơi lệ,” thầy dạy toán của ông cho biết. “Vâng, tôi đã thấy điều đó, nhưng tôi cũng nhìn thấy thứ gì đó khác. Một loại trí tuệ hiểm sâu, giống hệt máy móc mà nó thiếu đi những câu thúc đã ràng buộc mọi người chúng ta.”
Labarut có ý định đúc khuôn von Neumann thành một nhân vật kiểu Faust điển hình (Faustian figure: người đánh đổi tất cả từ niềm tin đến đạo đức để đạt được thành tựu), tức một con người đã vượt qua các giới hạn của tri thức để trở thành một thứ gì đó vượt trội hoặc tệ hại hơn một con người thông thường. Ý tưởng này có thể là điểm xa rời lớn nhất của Labarut so với sự thực trong tiểu sử. Trong thực tế, “người điên” này đã gây ấn tượng cho mọi người bằng sự hứng khởi và niềm say mê cuộc sống của mình. Trong cuốn tiểu sử năm 2022 của Ananyo Bhattacharya, The Man From the Future (tạm dịch: Người đến từ tương lai), von Neumann được Eugene Wigner, người bạn và cũng nhà vật lý đồng sự của ông mô tả là “một người đầy hứng khởi, một con người lạc quan luôn yêu quý tiền bạc và tin tưởng vững chắc vào sự tiến bộ của nhân loại.” Trái lại cũng chính Wigner, người kể lại vài ba phân đoạn trong The MANIAC lại nói về von Neumann như một nhân vật “ác quỷ”, người mà “đã vượt xa những gì có thể coi là hữu lý, cho đến khi cuối cùng anh ta đánh mất chính mình.”
Thuyết trình theo cách ngẫu hứng: von Neumann đang thảo luận về công trình của mình về máy điện toán trước Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ năm 1954. Ông hiếm khi sử dụng ghi chú ngay cả khi giảng về những chủ đề khó hiểu nhất. Ảnh: Qualiacomputing.
Một cuốn sách khác với cùng thông điệp: Khi chúng ta không còn hiểu nổi thế giới
Góc nhìn tăm tối của Labatut về khoa học hiện đại, và cái cách ông khéo léo bóp méo tiểu sử của von Neumann để truyền đạt sự tăm tối đó, sẽ khá quen thuộc đối với những độc giả của cuốn When We Cease to Understand the World (tạm dịch: Khi chúng ta không còn hiểu nổi thế giới), tác phẩm đầu tiên của Labatut được dịch sang tiếng Anh vào năm 2020. Pha trộn các sự thực trong tiểu sử với những câu chuyện ngụ ngôn kỳ quặc, cuốn tiểu thuyết đó đưa ra những bức chân dung thu nhỏ về năm thiên tài của thế kỷ 20, bao gồm Fritz Haber, nhà hóa học đã phát minh ra cả các loại phân bón mới lẫn vũ khí hóa học, và Werner Heisenberg, nhà khoa học tiên phong của cơ học lượng tử. Kỹ thuật kể chuyện có sự đóng góp rất lớn của W. G. Sebald, người thích nghiền ngẫm về những tình tiết kỳ lạ và rắc rối trong lịch sử, làm mờ đi ranh giới giữa sự thật và hư cấu.Tuy nhiên ở cuốn sách đó, Labatut lại tự do hơn nhiều trong cách bóp méo của mình, điều này trở nên khoa trương và siêu thực hơn theo từng phần của cuốn sách. Ông miêu tả một số nhân vật quan trọng nhất trong nền khoa học thế kỷ 20 như những con người bị ám ảnh, bị phát điên vì công cuộc theo đuổi kiến thức tổng thể của họ. Vào lúc này chúng ta đọc được rằng nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie, bị tổn thương bởi cái chết của người bạn thân nhất của mình, đã ủy quyền cho một nghệ sĩ điên rồ tạo ra một bản sao của Nhà thờ Đức Bà làm bằng phân người, chúng ta rõ ràng đang ở trong thế giới truyện ngụ ngôn.
Nhưng điều thực sự gây sốc là có rất nhiều điều kinh hoàng được mô tả trong When We Cease to Understand the World là hoàn toàn có thật. Vụ tấn công bằng hơi độc đầu tiên trong lịch sử, trong trận Ypres năm 1915, thực sự đã khiến “hàng trăm người [ngã] xuống đất co giật, nghẹt thở vì đờm nhớt của chính họ, chất nhầy màu vàng sủi bọt trong miệng, da họ chuyển sang màu tái xanh vì thiếu oxy." Và vợ của Haber, Clara, thực sự đã tự bắn vào tim mình, chảy máu đến chết trong vòng tay của đứa con trai nhỏ, có thể vì cảm thấy tội lỗi về vai trò của chồng mình trong việc tạo ra chiến tranh hơi độc. Khi Labarut kể câu chuyện về khoa học thế kỷ 20 như một câu chuyện ngụ ngôn đen tối, ông đang suy diễn từ lịch sử nhưng không hoàn toàn xuyên tạc nó.
Minh họa của báo The New Yorker về các nhà khoa học được “điên rồ” đề cập trong cuốn When We Cease to Understand the World. Ảnh: The New Yorker.
“Khi khoa học trở nên vô nhân đạo, con người có quyền báo trả”
Cuốn The MANIAC mở đầu bằng một câu chuyện ngắn ở ngôi thứ ba, không có mối liên hệ rõ ràng nào với cuộc đời của John von Neumann, nhưng sẽ hoàn toàn phù hợp với cuốn sách trước đó. Đó là câu chuyện có thật về Paul Ehrenfest, một nhà vật lý người Áo, bạn của Einstein, và là người mà cuộc đời của ông kết thúc trong một hành động kinh hoàng: Năm 1933, ông giết chết cậu con trai 15 tuổi của mình, Wassik, vốn đang sống trong một viện điều dưỡng dành cho những đứa trẻ mắc hội chứng Down, và sau đó là giết chết chính mình. Mặc dù Ehrenfest sống ở Hà Lan, Labatut cho rằng ông có thể bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi trước Đức Quốc xã, lực lượng đã lên nắm quyền ở Đức vào đầu năm đó và thông qua luật mới bắt buộc triệt sản cưỡng bức đối với người khuyết tật. Theo lời kể của Labatut, hành động của Ehrenfest là điềm báo không chỉ về tội ác của Đức Quốc xã mà còn là về sự phát triển kinh hoàng của khoa học hiện đại. Ông không thể nghĩ ra cách nào tốt hơn để giữ cho con trai mình "an toàn trước thứ lý trí mới kỳ lạ đang bắt đầu hình thành xung quanh họ, một dạng trí thông minh vô cùng phi nhân tính và hoàn toàn thờ ơ với những nhu cầu sâu sắc nhất của nhân loại." Đối với Ehrenfest, điều đáng lo ngại nhất về tinh thần quái dị này là nó xuất phát từ chính bên trong khoa học, "lượn lờ trên đầu các đồng nghiệp của ông tại các cuộc họp và hội nghị, chỉ nhìn qua vai họ [cũng đủ thấy]... một ảnh hưởng thực sự hiểm ác, cả có logic lẫn hoàn toàn phi lý, và mặc dù vẫn còn non trẻ và chưa hoạt động gì đáng kể, nhưng không thể phủ nhận rằng nó đang tập hợp sức mạnh, khao khát một cách liều lĩnh để đột nhập vào thế giới."Ehrenfest và Einstein, ngồi giữa là con trai của Ehrenfest. Ảnh: MIT Press.
Cách phản ứng của Ehrenfest là một hành động điên rồ, nhưng Labarut ngụ ý rằng việc von Neumann không thấy bị phiền bởi sự trỗi dậy của những thứ "vô nhân đạo" cho thấy một sự điên rồ thậm chí còn sâu sắc hơn. Giống như người học việc của phù thủy, von Neumann đã giúp đỡ thứ tinh thần hiểm ác của khoa học hiện đại “xâm nhập vào thế giới” mà không hề nghĩ tới cái giá mà thế giới sẽ phải trả. "Vấn đề với những trò chơi đó, nhiều trò chơi khủng khiếp nảy sinh từ trí tưởng tượng không thể kiềm chế của con người," vợ ông, Klara, trầm ngâm, “là khi chúng được chơi trong thế giới thực... chúng ta phải đối mặt với những nguy cơ rằng chúng ta có thể không có kiến thức hoặc sự khôn ngoan để vượt qua.”
Quyển The MANIAC nhấn mạnh điểm này theo nhiều cách khác nhau, bắt đầu từ ký ức thời thơ ấu được chia sẻ bởi Nicholas (1911-2011), em trai của von Neumann. Một đêm nọ, người cha là chủ ngân hàng của họ mang về nhà một chiếc máy dệt Jacquard, có thể được "lập trình" để dệt các mẫu vải khác nhau bằng cách sử dụng các bộ thẻ đục lỗ - một loại tổ tiên nguyên thủy của máy tính. Cậu bé János - tên gốc Hungary của Neumann, sau này được Mỹ hóa thành John - ngày càng bị ám ảnh bởi thiết bị này, không chịu ăn hay ngủ trong khi cậu mày mò tháo lắp nó, cố gắng tìm hiểu cách thức hoạt động của nó. Chẳng bao lâu, cậu bé hoảng sợ, sợ rằng mình không thể lắp khung cửi lại và nó sẽ bị lấy đi: “Anh ấy nói rằng đơn giản là anh ấy không thể rời xa chiếc máy.” Các chi tiết về trải nghiệm của János chỉ là tưởng tượng, nhưng tình tiết này cho phép Labatut đem đến cho người đọc một bức tranh phác họa tinh gọn về sai lầm chết người của von Neumann, cũng như một bài học nhỏ về lịch sử máy tính.
John von Neuman và nhà vật lý J. Robert Oppenheimer đang đứng trước máy tính MANIAC tại Viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton, New Jersey. Ảnh: Britannica.
Đây là một kiểu hư cấu thuần hậu hơn nhiều so với cuốn When We Cease to Understand the World và nói chung The MANIAC tạo cảm giác giống như một cách xử lý mô phạm và dễ tiếp cận hơn cho ý tưởng cơ bản của cuốn sách tiền nhiệm - sự băng hoại đạo đức trong cốt lõi của khoa học hiện đại. Điều này một phần là do Labatut đã tự đặt ra cho mình một thử thách kể chuyện khó khăn hơn bằng cách tập trung vào cuộc đời một người duy nhất với độ dài lớn hơn. Labatut phải truyền tải các chi tiết tiểu sử về von Neumann cho những độc giả chưa bao giờ nghe nói đến ông, giới thiệu những khái niệm phức tạp từ nhiều lĩnh vực khoa học, đồng thời "dệt" tất cả các thông tin này thành một câu chuyện ẩn dụ giàu tâm trạng về tri thức và sự vi phạm đạo lý.
Điều này có nghĩa là sự mê say về mặt văn chương thường bị phá vỡ bởi những câu nghe như thể chúng đã đến từ sách giáo khoa (chẳng hạn: "Năm 1901, Bertrand Russel, một trong những nhà logic học hàng đầu châu Âu, đã phát hiện ra một nghịch lý chết người trong lý thuyết tập hợp"), và những câu khác trong sách có thể được đem đi lồng tiếng trong bản xem trước phim ("Ông là con người thông minh nhất của thế kỷ 20... Tên ông là Neuman János Lajos. A.k.a Johnny von Neumann"), nếu như người ta có làm một bộ phim về Neumann, giống như bộ phim về Oppenheimer gần đây. Thực tế rằng The MANIAC là cuốn sách đầu tiên của Labatut được viết bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Tây Ban Nha, cũng có thể đóng một vai trò nào đó trong sự không đồng đều về giọng điệu này.
The MANIAC mô tả công trình của von Neumann về bom nguyên tử, nhưng sách lại mạnh mẽ ngụ ý rằng thành tựu phi nhân đạo đáng lo ngại nhất của ông là đặt nền móng cho trí tuệ nhân tạo. Ở phần cuối cuốn tiểu thuyết, chúng ta tìm hiểu công trình của von Neumann về mô hình Automata ô tự di động (cellular automata), kết hợp hai sở thích chính của ông: điện toán và lý thuyết trò chơi. Trong cuốn sách của mình mang tên Theory of Self-Reproducing Automata (tạm dịch: Lý thuyết về Automata tự tái tạo), Neumann đã tưởng tượng ra một mạng lưới các ô trong đó mỗi ô thay đổi trạng thái của nó - chẳng hạn như từ "bật" sang "tắt" hoặc từ màu này sang màu khác - tùy theo thông tin đầu vào nhận được từ các ô lân cận với nó. Về cơ bản, đây là một cách mô hình hóa cách các hệ thống có thể phát triển từ đơn giản đến phức tạp dựa trên cái mà ngày nay chúng ta gọi là thuật toán, tức sự áp dụng lặp đi lặp lại của một tập hợp các quy tắc. Khái niệm này đã có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu cả về đời sống sinh học lẫn trí tuệ nhân tạo.
Sự triển khai đầu tiên của trình hướng dẫn phổ quát tự tái tạo của von Neumann. Ở đây có ba thế hệ máy được trình bày: thế hệ thứ hai đã gần hoàn thành việc xây dựng thế hệ thứ ba (máy trên cùng). Các dòng chạy qua bên phải là các dải băng chứa những chỉ dẫn di truyền, được sao chép dọc theo thân máy. Ảnh: Wikipedia.
Ngoài việc giải thích những điều cơ bản về mô hình automata ô tự di động, Labatut còn biến ý tưởng này thành biểu tượng cho sự thất bại của von Neumann trong việc tôn trọng sự khác biệt giữa tính trừu tượng giống như trò chơi của toán học và sự nghiêm túc lộn xộn của cuộc sống con người. Vì vậy, thật là công bằng đầy thi vị khi Klára, tức giận vì "đầu óc ngoan cố" của chồng mình, đã lấy một bản in tác phẩm của ông - "một tuyệt tác đẹp đẽ gồm những chấm và đường nét đan xen nhau, gom lại một mớ, rồi xé toạc ra như răng cưa của một chiếc dây kéo bị hỏng" - và đốt nó cháy trụi trong thùng rác. Tuy có vẻ rất kịch tích song đó là một tình tiết khác nữa được sáng tạo để chỉ ra một bài học đạo đức: Khi khoa học trở nên vô nhân đạo, thì con người có quyền báo thù.
John von Neumann cùng vợ Klára Dán von Neumann, ở giữa là chú chó Inverse của họ. Klára cũng là mhà khoa học máy tính người Mỹ gốc Hungary, người đứng đầu Nhóm Máy tính Thống kê tại Princeton, sau đó chuyển đến Los Alamos để lập trình MANIAC, do chồng bà là John von Neumann thiết kế. Bà là một trong những lập trình viên máy tính đầu tiên. Ảnh: Twitter.
Nhân loại sẽ phải phục tùng?
Tuy nhiên, về lâu dài, Labatut gợi ý, có thể nhân loại phải sẽ phục tùng. Sau khi kết thúc câu chuyện của von Neumann, The MANIAC chuyển sang một đoạn kết dài về cờ vây, một trò chơi cờ có từ thời Trung Hoa cổ đại, trong đó người chơi thay phiên nhau đặt các quân đen và trắng lên bàn cờ, chiếm lấy lãnh thổ của đối thủ bằng cách bao quanh nó. Vào năm 2016, Lee Se-dol của Hàn Quốc, một trong những kỳ thủ cờ vây hàng đầu thế giới, đã được thách đấu trong trận đấu với AlphaGo, một AI được phát triển bởi DeepMind của Google. Gary Kasparov đã thua một trận cờ vua trước Deep Blue của IBM 20 năm trước, nhưng những người chơi cờ vây vẫn tự tin rằng trò chơi của họ phức tạp hơn nhiều đến mức không một cỗ máy nào có thể làm chủ được nó. Giống như rất nhiều người hoài nghi trước và sau đó, họ đã được chứng minh là sai; AlphaGo thắng trận với tỷ số 4-1, thắng bốn ván trong khi Lee chỉ ăn một ván.Sau khi kể lại câu chuyện cuộc đời của von Neumann trong khoảng 200 trang, The MANIAC dành những trang cuối cùng cho trận đấu này. Hiệu ứng này khiến người đọc có phần cụt hứng, nhưng rõ ràng Labatut coi tình tiết này là đỉnh điểm trong cốt truyện bi thảm của cuốn sách. Ehrenfest lo sợ sự xuất hiện của một trí thông minh phi nhân tính, von Neumann đã biến điều đó thành hiện thực, và giờ Lee thấy nó diễn ra trước mặt mình.
Lee Se-dol đấu cờ vây với AlphaGo của Google năm 2016. Vẻ căng thẳng của kỳ thủ hàng đầu trong suốt trận đấu xem ra rất phù hợp với luận điểm đầy bi kịch của The MANIAC: AI sẽ chiến thắng con người. Ảnh: Engadget.
Labatut viết: “Khi các nhà sử học tương lai nhìn lại thời đại của chúng ta và cố gắng xác định tia sáng đầu tiên của trí tuệ nhân tạo thực sự, họ có thể tìm thấy nó trong một nước đi duy nhất ở ván đấu thứ hai giữa Lee Sedol và AlphaGo.” Nước đi đó hoàn toàn bất ngờ đến nỗi nó dường như đã ném truyền thống chơi cờ vây hàng ngàn năm qua ra ngoài cửa sổ; không một người nào theo dõi trận đấu có thể hiểu được lý do biện minh cho nó, nhưng nước đi ấy đã dẫn đến chiến thắng của máy tính. Đến cuối ván thứ năm, Lee không còn hy vọng thắng mà chỉ trì hoãn thất bại. Labatut tưởng tượng ra quan điểm của một quan chức cờ vây về vấn đề này, nói rằng, "Chẳng ích gì khi chơi đến tàn cuộc nếu bạn biết mình sẽ thua cuộc, phải không?" Ngày nay, khi AI đang trên đà khiến cho tất cả mọi người từ lập trình viên đến tài xế xe tải trở nên lỗi thời, thì câu hỏi đó trở nên phù hợp một cách khó chịu hơn bao giờ hết.
The MANIAC không hoàn toàn nói rằng đây hoàn toàn là lỗi của John von Neumann, và tất nhiên là không phải vậy. Điều thực sự đáng sợ là ngay cả một bộ óc vĩ đại như vậy cũng có thể làm được tương đối ít việc để đẩy nhanh hoặc làm chậm sự tiến bộ của khoa học. Nếu von Neumann chưa từng sống trên đời, thì một người khác có thể đã thực hiện những khám phá của ông vào cùng thời điểm, giống như cách Gottfried Lebniz và Isaac Newton đều phát minh ra giải tích toán và Charles Darwin và Alfred Russel Wallace đều đưa ra thuyết tiến hóa. Một nhà quan sát trong cuốn tiểu thuyết nói về von Neumann: “Không phải sức tàn phá đặc biệt tai hại của một phát minh cụ thể mới tạo ra nguy hiểm. Mối nguy hiểm là mang tính nội tại. Để đạt được sự tiến bộ thì không có cách chữa trị.”
Dựa theo chuyên luận của Adam Kirsch, The Atlantic.
Nhận xét
Đăng nhận xét